Thứ Tư, 20 tháng 1, 2016

Dòng Saint Paul và dấu ấn kiến trúc Nguyễn Trường Tộ

Dòng Saint Paul và dấu ấn kiến trúc Nguyễn Trường Tộ

18/10/2015 - 11:33 AM
Với kiến trúc nhà dòng Saint Paul, chúng ta tự hào rằng tại Sài Gòn năm 1864 đã có một công trình kiến trúc kiên cố đầu tiên lại do chính kiến trúc sư người Việt thiết kế và xây dựng.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu nhận xét: “Dinh Thống đốc mà người Pháp còn phải mua của người Anh ở Singapore mang qua Sài Gòn lắp ráp thì với công trình tuyệt vời này đủ thấy người Việt Nam giỏi đến mức nào rồi”.
Khi đi ngang ngôi nhà trắng tại số 4 Tôn Đức Thắng, quận 1 (trước là Cường Để) mọi người chỉ biết đây là một nữ tu viện. Tòa nhà này trước kia còn được gọi là “Nhà Trắng”, không phải vì sơn toàn màu trắng như tòa Bạch Ốc (White House) mà vì ngôi nhà này được xây dựng và làm chủ bởi những nữ tu dòng Saint Paul de Chartres (Thánh Phaolô thành Chartres) “trinh bạch từ linh hồn đến những chiếc áo dòng trắng toát”. Trước năm 1975, trong nhà dòng này có một trường tư thục với các lớp từ mẫu giáo tới tú tài với số lượng 1.600 học sinh (có ký túc xá cho học sinh nội trú). Sau năm 1975, có một thời gian là trường sư phạm mầm non. Nếu ai có dịp vào đây sẽ choáng ngợp với không gian rộng rãi, khoáng đãng với kiến trúc ba khối nhà: cô nhi viện, nhà nữ tu ở và khu nhà nguyện. Khu nhà nguyện có thiết kế đặc biệt, nhìn từ trên cao xuống rất giống cây thánh giá, bên trong có thêm nhiều cột đỡ vững chãi, phía trước là một sân cỏ rộng với tượng thánh bổn mạng của dòng Phaolô.
Một thiết kế theo nhận định của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ: “Một giáo đường huy hoàng với đường nét thẩm mỹ lối Gothique. Các khu vòm hình liềm cung, đua nhau vượt lên tới 20 thước, không một chút chạm trổ hoa hòe… Làm cho khách tưởng nhớ đến giáo đường “Sainte Chapelle”… Cảm tưởng nhẹ nhàng vì sự thành công của vị kiến trúc sư làm cho ai vào đó cũng cảm thấy thoát tục”.
Kiến trúc sư “thầy Học”
Theo các tài liệu lịch sử truyền giáo, vào ngày 20.5.1860, các nữ tu dòng Thánh Phaolô gốc ở thành Chartres (Soeurs de Saint Paul de Chartres) từ Hong Kong đặt chân đến Sài Gòn. Họ cùng tạm định cư tại một căn nhà nhỏ vùng chợ cũ cùng các nữ tu dòng kín (đến Sài gòn năm 1861). Vào tháng 9-1862, mẹ bề trên dòng thánh Phaolô Benjamin khởi công xây cất nhà giám tỉnh tại khu đất Đường Thành (Rue de la Citadelle). Toàn bộ công trình này hoàn thành vào ngày 10.8.1864. Và trong bản thảo viết tay của mẹ Benjamin chỉ ghi lại tên kiến trúc sư là Thầy Học.
Lúc ấy các bà phước chẳng biết kiến trúc sư “Thầy Học” là ai. Không biết trước đây đã có tài liệu nào xác minh Thầy Học là ai chưa. Riêng cụ Vương Hồng Sển trong quyển Sài Gòn năm xưa in năm 1958 cho biết: “Tương truyền nhà lầu cao lớn nơi đây là do ông Nguyễn Trường Tộ năm xưa đứng coi xây cất”. Vậy Thầy Học hay ông Nguyễn Trường Tộ là người thiết kế, xây cất tòa nhà này?Trong tạp chí Văn Đàn (số 4-1961, Sài Gòn) ông Phạm Đình Khiêm đã công bố nhiều tài liệu trong thư khố tu viện đã chứng minh Thầy Học chính là ông Nguyễn Trường Tộ.
Một góc khu nhà nguyện vẫn nguyên vẹn như xưa. Ảnh chụp ngày 10.10.2015. Ảnh: HTD
Trước hết, các soeur gọi ông Nguyễn Trường Tộ là Thầy Học vì ông đã từng làm thầy dạy học cho nhà chung. Cách gọi này đã được ghi một cách chính thức trong một tập tài liệu viết tay tên là La Création des Établisements des Soeurs de Saint Paul de Chartres en Extrême-Orient (Ký sự về việc thành lập các cơ sở dòng Nữ tu thánh Phaolô thành Chartres tại Viễn Đông) do mẹ Benjamin, người sáng lập “Nhà Trắng” soạn thảo.
 “… Được khu đất tốt đẹp như vậy lại chán cảnh tạm bợ nhiều khi còn tốn kém hơn, bà bề trên bèn quyết định xây nhà vững chắc. Bà bàn tính công việc xây cất ấy với Đức cha Gauthier và cha Croc, các vị ấy đồng ý rằng khi trở về đàng ngoài, sẽ để Thầy Học ở lại điều khiển các công tác”.
Trong ký sự còn xác định: “Ông là một giáo hữu Đàng-Ngoài”. Điều này đã xác nhận thời gian sau khi thôi học, ông Nguyễn Trường Tộ mở trường dạy chữ Hán tại nhà, rồi được mời dạy chữ Hán trong nhà chung Xã Đoài (nay thuộc xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An). Tại đây, năm 1846 ông được giám mục người Pháp tên là Gauthier dạy học tiếng Pháp và giúp cho có một số hiểu biết về các môn khoa học thường thức của phương Tây.
Cuối năm 1858, ông đi cùng Giám mục Gauthier vào Đà Nẵng tránh nạn “phân sáp” (sáp nhập hai, ba gia đình Công giáo vào trong một làng không Công giáo, chứ không cho ở tập trung như trước). Đầu năm 1859, Giám mục Gauthier đưa ông sang Hương Cảng (Hong Kong) và Pháp. Trong tập Sự tích ông Nguyễn Trường Tộdo con ông là Nguyễn Trường Cửu ghi chép giai đoạn ông Nguyễn Trường Tộ đi Pháp như sau: “Rồi sang nước đại Pháp, ở kinh thành Ba Lê, là kinh đô, đi du lịch xem chính trị, học hành, kỹ nghệ, phong tục nước đại Pháp. Khi nghe “lặng sáp” rồi (ý nói chấm dứt tình trạng phân sáp như nói ở trên - LVN) thì Đức cha Hậu lại đem ông Tộ và các cụ về nhà chung”.
Vẫn theo ông Cửu thì chính mẹ bề trên phải thỏa thuận với Đức cha Hậu để xây cất Nhà Trắng. Câu hỏi đặt ra là tại sao mẹ Bejamin lại chọn Nguyễn Trường Tộ mà không chọn những kiến trúc sư Pháp vì chính Nguyễn Trường Tộ đã chứng minh được với mẹ bề trên và Đức cha là một người có khả năng về kiến trúc khi về nhà chung (Xã Đoài) đã “làm lại nhà hai tầng cho Cố giữ việc ở và nhà Tràng Latin ba tầng hình chữ thập gọi là “nhà tây” cho học trò Latin ở và học cùng làm nhà thờ Đức Bà riêng cho học trò, theo mẫu nhà thờ Đức Bà hiện ra thành Lộ Đức (Lourdes) đẹp lắm và ở ngoài xây tường cải hoa lộng, giống các sắc hoa tây nam rực rỡ xanh tươi vui mắt, rầy (bây giờ) hư rồi. Đoạn tậu vườn làm nhà ở phía bắc nhà chung, rồi vào Gia Định làm sở nhà bà phước cho các người nhà mụ Tây ở…”.
Theo tác giả Trương Bá Cần, trong các công trình do Nguyễn Trường Tộ xây cất ở Xã Đoài, nay chỉ còn lại nhà tràng Latin (tức tiểu chủng viện) ba tầng, hình chữ thập gọi là “nhà Tây”, chứ tòa giám mục và các nhà phụ thuộc đều đã bị bom Mỹ đánh sập.
Dấu ấn kiến trúc tại Sài Gòn
Riêng Giám mục Gauthier thường gọi Nguyễn Trường Tộ bằng danh hiệu “kiến trúc sư”, mặc dù ông Tộ chưa một ngày học qua ngành kiến trúc như trong thư gửi Hội Truyền giáo nước ngoài ở Paris (đề ngày 1-1-1870), Giám mục Gauthier viết: “... Người ta quen gọi là kiến trúc sư vì ông ta (chỉ ông Tộ) đã xây ngôi nhà ba tầng của các nữ tu Sài Gòn, một nhà nguyện và một ngọn tháp cao nổi bật...” (dẫn lại theo Nguyễn Bá Cần).
Có lẽ do thiên bẩm, óc quan sát, thực nghiệm khi được ra nước ngoài trước kia, ông có ở Hong Kong ít lâu và trong thời gian ngắn ngủi tại thuộc địa này của người Anh, ông đã thấy được cách thức và thể loại kiến trúc của châu Âu. Trước đó, ông đã được ngợi ca là một kiến trúc sư tài năng trong quyển II, trang 731 của tạp chí La Semaine religieuse (Paris, năm 1867):
… Người Đông phương ở trong phái ủy thì có hai ông quan và một người kiến trúc sư Công giáo, có trí nhớ lạ lùng, tài năng lỗi lạc và chính là người đã xây giáo đường của ta ở Sài Gòn”. Hai ông quan là Nguyễn Tăng Doãn và Trần Văn Đạo, còn người kiến trúc sư tài năng lỗi lạc ấy chính là ông Nguyễn Trường Tộ.
Linh mục Le Mée (thừa sai Paris) trong một bức thư đăng trên tập san Missions Catholiques năm 1876 có nói về công việc ấy như sau: “Đức Giám mục Gauthier và linh mục Croc đã đem theo một nho sĩ Bắc Kỳ, tên là Lân (tức Nguyễn Trường Tộ). Với trí thông minh hiếm có, lại được gợi ý và được thúc đẩy bởi sự nhiệt tình và tận tụy của Giám mục Gauthier, nho sĩ Bắc Kỳ này, vì tình yêu Thiên Chúa, đã nhận đứng ra đốc suất công việc. Thời đó ở Sài Gòn chưa có một công trình nào làm kiểu mẫu. Với đề án của tu viện và nhà nguyện do nữ tu Benjamin cung cấp, ông ta đã phác họa được một họa đồ phối cảnh chung và thực hiện công trình nhờ sự cộng tác của các công nhân người Việt. Chính ông đã phải vẽ sơ đồ của tháp chuông và tự mình trông nom công việc một cách rất cẩn thận và chính ông đã hoàn thành nhiều phần khác của công trình. Mỗi ngày người ta thấy ông có mặt ở công trường và để ý tới từng chi tiết. Phải thú nhận là nếu không có ông thì không thể thực hiện được một công trình như vậy vào một thời điểm mà ở Sài Gòn chưa có thợ cũng như chưa có nhà thầu...”.
Rất tự hào khi Sài Gòn được nhà canh tân Nguyễn Trường Tộ để lại dấu ấn về kiến trúc như lời kiến trúc sư Ngô Viết Thụ: “Kính phục, vì ai ngờ ngoài cái tài chính trị, kinh tế và óc duy tân, cụ lại có tài kiến trúc đến như thế…”.
Lê Văn Nghĩa (nguồn Pháp luật TP.HCM)
Công trình kiến trúc đầu tiên của người Việt ở Sài Gòn - ảnh 3 
Ông Nguyễn Trường Tộ (ảnh) sinh năm 1828, quê ở Nghệ An, là một nhà Hán học sâu sắc, từng giúp Đức giám mục Gauthier trong việc giảng dạy chữ Nho cho các tu sĩ để làm linh mục.
Nguyễn Trường Tộ là người có tài thiên bẩm về kiến trúc mà công trình La Sainte Enfance do tự tay ông thiết kế là một điển hình.
Sau này, theo lời mời của triều đình Huế, ông còn tham gia khai thông hệ thống đường thủy kênh Sắt ở Nghệ An bằng cách pha chế thuốc nổ tự tạo ra mìn. Ông mất năm 1871 tại quê nhà. (theo Thanh niên)

Nguồn http://www.nguoidothi.vn/vn/news/hon-pho/di-san

Thứ Ba, 12 tháng 1, 2016

Tôi giúp hai vợ chồng hư xe, bị hô "cướp, cướp"

TT - Tôi làm thợ thiết kế, quảng cáo tại phường Phú Thọ, TP Thủ Dầu Một (Bình Dương). Một đêm gần cuối tháng 12-2015, tôi và người bạn đi thi công công trình đến tận 22g mới xong việc.
Đoạn đường từ nơi làm việc ra đến quốc lộ về nhà khá xa. Đi một đoạn chúng tôi gặp vợ chồng bác lớn tuổi dắt bộ chiếc xe máy nên tôi quay xe lại hỏi thăm.
Khi vừa đến, chưa kịp dừng xe đã thấy bác này gạt chống xe rồi cùng vợ lùi ra xa và hỏi chúng tôi bằng giọng đề phòng: “Mấy chú muốn gì?”. Biết bị nghi là kẻ gian nhưng thấy mình giúp người nên tôi không bận tâm, chỉ hỏi “xe bác bị gì để chúng tôi giúp”.
Bác này nói xe bị hết xăng, rồi bất ngờ la toáng lên: “Bớ người ta ăn cướp... cướp...”, làm chúng tôi hoảng kinh hồn vía! Anh bạn đi cùng thấy vậy xui “thôi bỏ mặc kệ, không khéo lại làm ơn mắc oán”!
Dù bị xúc phạm, lòng nổi lên cơn tự ái, lại vừa mệt vừa đói nhưng bỏ đi không đành vì biết rõ đoạn đường còn khá xa mới ra đến quốc lộ, nên tôi cố kìm nén, đi tìm vỏ chai nhựa, tháo ống xăng và rút một chai xăng rồi gọi bác này lại.
Khi nghe tôi gọi, bác này mới từ từ lại gần cầm chai xăng rồi hỏi lại tôi: “Chú cho tui xăng thiệt hả? Hổng lẽ thời giờ còn có người tốt thiệt vậy hả?”.
Đề chiếc xe nổ máy xong, bác này vui mừng quay sang gọi vợ nãy giờ vẫn còn đứng đằng xa: “Bà ơi, lại đây đi, hai chú này cho mình xăng, hổng phải người xấu. Tui với bà phải xin lỗi hai chú này một tiếng cho phải phép!”.
Bình thường khi giúp ai điều gì đó tôi luôn thấy vui, nhưng thú thật là sau cái đêm giúp vợ chồng bác lớn tuổi nọ đến nay tôi buồn nhiều hơn. Thời này làm việc tốt sao khó khăn và... nguy hiểm quá!
Tôi không trách vợ chồng bác, tuy nhiên rất chạnh lòng khi thấy niềm tin vào người khác đang bị suy giảm đến mức ngay khi gặp nạn, được giúp đỡ mà người ta còn không dám tin nhau, không tin sự chân thành đó là điều có thật!
Phải chăng thay vì nghi ngờ quá nhiều, chúng ta nên mở lòng, cởi mở với nhau, đừng quá đề phòng, đa nghi bởi xã hội vẫn còn rất nhiều người tốt!
LÊ VĂN GIANG (NGỌC HẠNH ghi

Thứ Hai, 23 tháng 11, 2015

Phương pháp thần kì của Đạt Ma Sư Tổ chữa bách bệnh ngay cả ung thư thời kỳ cuối

Phương pháp thần kì của Đạt Ma Sư Tổ chữa bách bệnh ngay cả ung thư thời kỳ cuối

Posted on  by  in 
Năm Đinh Sửu (theo công lịch là năm 917) nhà sư Đạt MA từ Ấn Độ sang Trung Quốc thuyết pháp, truyền giáo rồi ở lại Trung Sơn, Hà Nam (của Trung Hoa) xây dựng Thiếu Lâm Tự (Chùa Thiếu Lâm). Việc truyền tụng một tín ngưỡng mới, khác với niềm tin cũ của người bản sứ, thường dễ sảy ra mâu thuẫn, xung đột nên các đệ tử của Ông vừa lo tu dưỡng, học Phật pháp, vừa phải ra công luyện tập võ nghệ để tự vệ. Từ đó môn võ Thiếu Lâm ra đời và tồn tại mãi đến ngày nay.

Nhiều người xin nhập môn nhưng thể chất kém không thể luyện võ được. Sư Tổ Đạt Ma bèn dạy cho một cách tập luyện để nâng cao thể lực gọi là Dịch Cân Kinh.

“Dịch – thay đổi, Cân – gân cốt, Kinh – sách quí” 

Cách tập này rất đơn giản, chỉ cần kiên trì tập vẩy tay đứng phương pháp là sẽ đạt hiệu quả rất lớn: ăn ngon, ngủ tốt, sức khỏe tăng và đặc biệt là trừ được bệnh tật như: suy nhược thần kinh, cao huyết áp, hen xuyễn, các bệnh tim mạch, các bệnh dạ dày, đường ruột, thận, gan, ống mật, trĩ nội … rồi bán thân bất toại, trúng gió méo mồn lệch mắt, … đều biến hết
Nhất là các loại bệnh mãn tính của người cao tuổi, kể cả các loại ung thư đều có thể phòng và trị được. Với các bệnh về mắt, luyện Dịch Cân Kinh có thể chữa khỏi các chứng đau mắt thông thường, đau mắt đỏ và cả đục thủy tinh thể (thông manh)

Tại sao mà kì diệu đến vậy ?

Theo y lý cổ truyền Phương Đông, mọi bệnh tật đều do mất cân bằng “âm – dương” và trì trệ khí huyết mà ra. Khí huyết của ta vừa các Vệ Sĩ tiêu trừ các yếu tố đọc hại từ ngoài xâm nhập, vừa là Nhà Quản Lý sắp sếp lại nhưng chỗ mất cân bằng.
Y học Phương Đông rất coi trọng vai trò của ý chí, của chủ quan, của nội lực, của chữ “TÂM”. Lo lắng, Bực bội, Không tin tưởng, Độc ác, … đều tác dụng xấu tới sức khỏe. Thanh thản, Hướng thiện, Nhân đức, … vừa mang lại sảng khoái, thăng bằng, mạnh khỏe, vừa dễ cả phòng bệnh lẫn chữa bệnh. Thuốc thang Đông y chỉ kích thích, bổ trợ cho nội lực của chúng ta chống lại bệnh tật. Trái lại, ỷ vào hóa dược của “y học hiện đại” (như dựa vào quân đội ngoại quốc làm lính đánh thuê) thường có tác dụng phụ không mong muốn, nguy hại cho sức khỏe và tuổi thọ !
Tâp chung đầy đủ ý chí và tinh thần để kiên trì tập luyện theo ĐẠT MA DỊCH CÂN KINH là làm cho khí kuyết lưu thông đều khắp cơ thể, vào cả lục phủ ngũ tạng, các hệ mạch lạc thần kinh … nên có tác dụng kỳ diệu vậy đó !
PHƯƠNG PHÁP LUYỆN TẬP
“VẨY TAY ĐẠT MA DỊCH CÂN KINH”

Trước tiên nói về tinh thần:

Phải có hào khí: nghĩa là có quyết tâm tập cho đến nơi và đều đặn, kiên nhẫn, vững vàng tin tưởng, không nghe lời bàn ra tán vào mà bỏ dở.
Phải lạc quan: không lo sợ vì bệnh mà mọi người cho là hiểm nghèo, và tươi tỉnh tin rằng mình sẽ thắng bệnh do luyện tập.
TƯ THẾ :

“Trên không, dưới có, lên ba, xuống bảy”

Trên phải không, dưới nên có. Đầu nên lơ lửng, miệng không hoạt động, bụng phải mềm, lưng nên thẳng, thắt lưng mềm dẻo, cánh tay phải vẫy, cùi chỏ thẳng và mềm, cổ tay trầm, bàn tay quay lại phía sau, ngón tay xòe như quạt. Khi vẫy, lỗ đít phải thót, bụng dưới thót, gót chân lỏng, hậu môn phải chắc, bàn chân phải cứng, ngón chân bấm chặt đất như trên đất trơn. Đây là những quy định cụ thể của các yêu lĩnh khi luyện “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh’.
Dựa trên yêu cầu này, khi tập vẫy tay, thì từ cơ hoành trở lên, phải giữ cho được trống không, buông lỏng thảnh thơi, đầu không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý tập chung vào tập, xương cổ cần buông lỏng để cho có cảm giác như đầu treo lơ lửng, mồm giữ tự nhiên (không mím môi), ngực nên buông lỏng để cho phổi thở tự nhiên, cánh tay buông tự nhiên, giống như hai mái trèo gắn vào vai. Từ cơ hoành trở xuống phải giữ cho chắc, đủ sức căng, bụng dưới thót vào, hậu môn nhích lên, mười ngón chân bấm chặt vào mặt đất, giữ cho đùi và bắp chân trong trạng thái căng thẳng, xương mông thẳng như cây gỗ.
Khi vẩy tay cần nhớ “lên không, xuống có”, nghĩa là lấy sức vẩy tay về phía sau, khi tay trở lại phía trước là do quán tính, không dùng sức đưa ra phía trước.
“Trên ba, dưới bảy” là phần trên để lỏng chỉ độ 3 phần khí lực, phần dưới lấy gắng sức tới bảy phần thể lực, vấn đề này phải quán triệt đầy đủ thì hiệu quả mới tốt.
Mắt nhìn thẳng, đầu không nghĩ ngợi chỉ nhẩm đếm lần vẫy tay.
CÁC ĐỘNG TÁC TẬP CỤ THỂ:
chuabachbenh-1
chabachbenh-2
chuabachbenh-3
a. Hai bàn chân để xích ra bằng khoảng cách của hai vai.
b. Hai tay duỗi thẳng theo vai, ngón tay xòe thẳng, lòng bàn tay quay về phía sau.
c. Bụng dưới thót lại, lưng thẳng, bụng trên co lên, cổ lỏng, đầu và miệng trạng thái bình thường.
d. Các đầu ngón chân bám trên mặt đất, gót chân sát đất, bắp chân và đùi căng thẳng.
e. Hai mắt chọn một điểm đằng xa để nhìn, không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào ngón chân bám, đùi vế chắc, lỗ đít thót và nhẩm đếm.
f. Dùng sức vẫy tay về phía sau, để hai tay trở hai phía trước theo quán tính, tuyện đối không dùng sức, chân vẫn lấy ân, hậu môn co lên không lòi.
g. Vẩy tay từ 300-400-500-600 dần dần lên đến 1000 cái vẩy tay, ước chừng 30 phút.
h. Phải có quyết tâm tập đều đặn, lần vẩy tay tăng dần lên, không miễn cưỡng vì “dục tốc bất đạt”, nhưng cũng không tùy tiện bữa tập nhiều, bữa tập ít hoặc nghỉ tập, vì thế dễ làm mất lòng tin trong việc luyện tập, như vậy khó có kết quả.
Bắt đầu luyện tập cũng không nên dùng hết sức làm tổn thương các ngón chân. Sau buổi luyện tập nên vê vê các ngón chân, tay, mỗi ngón chín lần.
Nôn nóng mong muốn khỏi bệnh ngay mà dùng quá sức cũng không đưa lại kết quả mong muốn.
Có quyết tâm, nhưng phải từ từ tiến lên mới đúng cách, sẽ thu được kết quả mỹ mãn.
Nếu tinh thần không tập chung, tư tưởng phân tán, khí huyết loạn xạ, và không chú ý đến “trên nhẹ, dưới nặng” là sai và hỏng.
Khi vẩy tay tới 600 cái trở lên, thường thường có trung tiện ” đánh rắm”, hắt hơi, hai chân nhức mỏi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng … đấy là hiện tượng bình thường, có phản ứng là tốt, là đã có hiệu quả, đừng ngại.
Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên, đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho hợp với “trên nhẹ, dưới nặng”. Đây là quy luật của sinh lý hợp với vũ trụ “thiên khinh địa trọng”.
Bệnh gan:
Do khí huyết, tạng gan không tốt gây nên khí không thoát, tích lũy, làm cho khó bài tiết. Đương nhiên là bệnh nan y ảnh hưởng tới cả mật và tì vị. Luyện “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh” có thể giải quyết vấn đề này. Nếu sớm có trung tiện là có kết quả.
Bệnh mắt:
Luyện “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh” có thể khỏi đau mắt đỏ, các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm chí nó có thể chữa được cả bệnh đục thủy tinh thể (thông manh).
Trong nội kinh có nói “mắt nhờ huyết mà nhìn được”, khi khí huyết không dẫn đến bộ phận của mắt thì đương nhiên sinh ra các bệnh của mắt. Con mắt là trong hệ thống của thị giác, nhưng cũng là bộ phận của cơ thể.
NHỮNG PHẢN ỨNG
Khi tập “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh” có thể có những phản ứng, đều là hiện tượng thải bệnh, không đáng ngại. Xin liệt kê ra đây 34 phản ứng thông thường (có thể có những phản ứng khác nữa không liệt kê hết được).
1. Đau.
2. Buốt.
3. Lạnh.
4. Đầy hơi
5. Ngứa
6. Tê dại
7. Nóng.
8. Ra mồ hôi.
9. Đau lưng
10. Đầu nặng.
11. Nấc.
12. Nôn mửa,ho.
13. Lông, tóc dựng đứng.
14. Giật gân, giật thịt.
15. Âm nang (bìu dái) to lên.
16. Máy mắt, mí mắt giật.
17. Hơi thở ra nhiều, thở dốc.
18. Trung tiện (đánh rắm).
19. Huyết áp biến đổi.
20. Sắc mặt biến đổi.
21. Chảy máu cam.
22. Đau mỏi toàn thân.
23. Ứa nước miếng.
24. Tiểu tiện nhiều.
25. Đại tiện ra máu, mủ hoặc phân đen.
26. Có cảm giác như kiến bò, hoặc kiến cắn.
27. Đau xương, có tiếng kêu lục cục.
28. Có cảm giác máu chảy dồn dập.
29. Ngón chân nhức nhối như mưng mủ.
30. Cụm trắng ở lưỡi biến đổi.
31. Da cứng và da dầy (chai chân, mụn cóc) dụng đi.
32. Trên đỉnh đầu mọc mụn.
33. Bênh từ trong da thịt tiết ra.
34. Ngứa từng chỗ hay toàn thân.
Các phản ứng trên là do trọc khí trong người bi bài tiết ra ngoài cơ thể, loại trừ chất ứ đọng, tức tử bệnh tật.
Có phản ứng là có sự xung đột giữa chính khí và tà khí. Ta vẫn tiếp tục tâp vẩy tay sẽ sinh sản ra chất bồi bổ, có nhiều ích lợi cho chính khí. Ta luyện tập đúng phép là làm tăng mức đề kháng, thải cặn bã trong các gân, thần kinh và cả tế bào khác mà máu thường không thải nổi. Khi luyện “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh” khí huyết lưu thông mới thải nổi cặn bã ra, nên sinh ra phản ứng. Vậy ta đừng sợ, cứ tiếp tục tập như thường, hết một phản ứng là khỏi một căn bệnh, tập luyện dần dần đưa lai kết quả tốt.
BỐN TIÊU CHUẨN
Luyện “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh” đạt được bốn tiêu chuẩn như sau:
Nội trung tố: tức là nâng can khi lên, là then chốt, điều chỉnh tạng phủ, lưu thông khí huyết, thanh khí sẽ thông suốt lên tới đỉnh đầu.
Tứ trưởng tố: tức là tứ chi phối hợp với động tác theo đúng nguyên tắc khi tập “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh”.Tứ trưởng tố song song với Nội trung tố sẽ làm cho tà khí bài tiết ra ngoài, trọc khí dắn xuống, cơ năng sinh sản ngày càng mạnh.
Ngũ tâm phát: nghĩa là 5 trung tâm của huyệt dưới đây họat động mạnh hơn mức bình thường:
* Bách hội:     một huyệt trên đỉnh đầu.
* Lão cung:    hai huyệt của hai gan bàn tay.
* Dũng tuyền: hai huyệt của hai gan bàn chân.
Khi luyện “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh” 5 huyệt này đều có phản ứng và hoàn toàn thông suốt. Nhâm đốc và 12 kinh mạch đều đạt tời hiệu quả phi thường, nó làm tăng cường thân thể tiêu trừ các bệnh nan y mà ta không ngờ.
Lục phủ minh: Lục phủ là ruột non, mật, dạ dày, ruột già, bong bóng, tam tiêu. Minh nghĩa là không trì trệ. Lục phủ có nhiệm vụ thâu nạp thức ăn tiêu hóa và bài tiết được thuận lợi, xúc tiến các cơ năng sinh sản, giữ vững trạng thái bình thường của cơ thể, tức là âm dương cân bằng, cơ thể thịnh vượng.
MỘT SỐ ĐIỂM CẨN CHÚ Ý
Số lần vẩy tay không nên ít: từ 600 lần đến 1.800 lần (30 phút mới là toại nguyện cho đợt điều trị).
Bệnh nhân nặng, có thể ngồi mà vẫy tay, tuy ngồi nhưng vẫn phải nhớ thót đít và bấm 10 ngón chân
         Số buổi tập:
   * Buổi sáng thanh tâm          -> tập mạnh.
         * Buổi chiều trước khi ăn     -> tập vừa.
         * Buổi tối trước khi ngủ       -> tập nhẹ.
Có thể tập nhiều nhất là bao nhiêu ? Ngưỡng cửa của sự chuyển biến bệnh là 1.800 lần vẫy tay, có bệnh nhân vẫy 3.000 tới 6.000. Nếu sau khi tập thấy ăn ngon, ngủ tốt, đại tiểu tiện điều hòa, tinh thần tỉnh táo, thì chứng tỏ con số ta tập là thích hợp.
Tốc độ vẫy tay: Theo nguyên tắc thì nên chậm, chứ không nên nhanh. Bình thường vẫy 1.800 cái hết 30 phút. Vẫy tay tới lúc nửa trừng thường nhanh hơn lúc ban đầu một chút, đây là lục động của khí. Khi mới vẫy rộng vòng và chậm một chút. Khi đã thuần thì hẹp vòng, người bệnh nhẹ thì nên vẫy nhanh và dùng sức nhiều, người bệnh nặng thì nên vẫy chậm và hẹp vòng.
Vẫy tay nhanh quá làm cho nhịp tim đập nhanh, mà vẫy chậm quá thì không đạt tới mục đích luyện tập là cần cho mạch máu lưu thông
Vẫy tay nên dùng sức nhiều hay ít, nặng hay nhẹ ?  Vẫy tay là môn thể dục chữa bệnh chứ không phải môn thể thao đặc biệt. Đây là môn thể dục mền dẻo, đặc biệt là không dùng sức. Nhưng nếu vẫy nhẹ quá cũng không tốt bởi vì bắp vai không được lắc mạnh thì lưng và ngực, cũng không được chuyển động nhiều tác dụng sẽ giảm.
Theo Songkhoe.net

Thứ Sáu, 23 tháng 1, 2015

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô cho Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội lần thứ 49 (năm 2015)

TRUYỀN THÔNG TRONG GIA ĐÌNH,
NƠI DÀNH RIÊNG ĐỂ GẶP GỠ QUÀ TẶNG TÌNH YÊU
*
Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô
cho Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội lần thứ 49 (năm 2015)
Gia đình là một chủ đề được Giáo hội suy tư sâu sắc và có liên quan đến hai Thượng hội đồng Giám mục: Thượng hội đồng Giám mục khóa ngoại thường mới đây và Thượng hội đồng Giám mục khóa thường lệ sẽ diễn ra vào tháng Mười tới. Vì vậy, tôi nghĩ thật là thích hợp khi chọn chủ đề nói về gia đình cho Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội sắp tới. Cuối cùng ra, chính trongbối cảnh gia đình mà chúng ta bắt đầu học cách truyền thông. Việc tập trung vào khung cảnh này sẽ giúp chúng ta làm truyền thông được đúng đắn và nhân văn hơn, đồng thời chúng ta sẽ nhìn gia đình với một nhãn quan mới.
Chúng ta có thể lấy gợi ý từ đoạn Phúc Âm về việc Đức Mẹ đi thăm bà Êlisabét (Lc 1, 39-56). “Khi bà Êlisabét nghe lời chào của Đức Maria, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng bà, và bà Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lên rằng: ‘Em có phúc hơn các phụ nữ, và con trong bụng em quả là được chúc phúc’” (1, 41-42).
Đoạn Phúc Âm này trước hết cho chúng ta biết truyền thông là sự đối thoại được đan dệt bằng ngôn ngữ cơ thể như thế nào. Câu đầu tiên đáp lời Đức Maria chào là của hài nhi đang nhảy mừng trong lòng bà Êlisabét. Vui mừng gặp gỡ tha nhân, vốn là điều chúng ta học được từ trước khi chào đời, xét theo nghĩa nào đó, là nguyên mẫu và biểu tượng của mọi hình thức truyền thông khác. Cung lòng đón nhận chúng ta chính là “ngôi trường” đầu tiên dạy truyền thông, là nơi lắng nghe và tiếp xúc qua thể xác, nơi chúng ta bắt đầu làm quen với thế giới bên ngoài, trong một môi trường được bảo vệ, được tiếng của nhịp đập trái tim mẹ vỗ về. Cuộc gặp gỡ giữa hai con người này, dù vẫn tách biệt với nhau nhưng lại có mối liên quan rất mật thiết, một cuộc gặp đầy hứa hẹn, trở thành kinh nghiệm đầu tiên của chúng ta về truyền thông. Đó là kinh nghiệm tất cả chúng ta đều có thể chia sẻ, bởi mỗi chúng ta đều được sinh ra từ một người mẹ.
Dù khi đã chào đời, trong một ý nghĩa nào đó, chúng ta vẫn ở trong một “cung lòng”, tức là gia đình. Một cung lòng được hình thành từ nhiều con người được đan kết với nhau: gia đình là “nơi chúng ta học sống với tha nhân dù có những dị biệt”(Evangelii Gaudium, 66). Mặc dù khác nhau về giới tính và tuổi tác, nhưng mọi người trong gia đình đều đón nhận nhau vì có mối dây liên kết họ với nhau. Phạm vi những mối quan hệ này càng rộng và sự khác biệt tuổi tác càng lớn, thì môi trường sống của chúng ta càng phong phú. Đó chính là mối liên kết ở ngay cội nguồn của ngôn ngữ, rồi đến lượt mình, ngôn ngữ lại củng cố mối liên kết đó. Chúng ta không tạo ra ngôn ngữ nhưng sử dụng ngôn ngữ, bởi chúng ta đã tiếp nhận nó. Chính trong gia đình, chúng ta học nói tiếng “mẹ đẻ”, ngôn ngữ của tổ tiên chúng ta (x. 2 Mcb 7, 25.27). Trong gia đình, chúng ta nhận ra rằng những người khác đã đến trước chúng ta, tạo lập gia đình cho chúng ta sống được, rồi đến lượt mình, chúng ta cũng lại sinh ra sự sống và làm những việc tốt đẹp. Chúng ta có thể trao ban, bởi chúng ta đã lãnh nhận. Vòng luân chuyển tốt lành này là cốt lõi của khả năng truyền thông giữa mọi người trong gia đình với nhau và với những người khác. Nói khái quát hơn, đó là kiểu mẫu của mọi truyền thông. 
Kinh nghiệm về mối quan hệ với những người “đến trước” chúng ta mang lại cho gia đình khả năng trở thành nơi chuyển giaohình thức truyền thông cơ bản nhất, đó là cầu nguyện. Khi cha mẹ đặt đứa con mới sinh của mình vào giường ngủ, họ thường phó dâng chúng cho Chúa, xin Chúa trông nom chúng. Khi con cái lớn thêm một chút, cha mẹ giúp chúng biết đọc các kinh thông thường, biết thân thương nghĩ đến người khác, chẳng hạn ông bà nội ngoại, họ hàng, người đang đau ốm, khổ sở và mọi người đang cần được Chúa thương giúp sức. Chính trong gia đình, phần lớn chúng ta được học hỏi về chiều kích tôn giáocủa truyền thông; riêng đối với Kitô giáo, đó là chiều kích thấm nhuần tình yêu, một tình yêu đã được Thiên Chúa ban cho chúng ta và chúng ta mang đến cho tha nhân.
Trong gia đình, chúng ta được học biết cưu mang và nâng đỡ nhau, biết nhận ra ý nghĩa được biểu lộ nơi khuôn mặt và những khoảnh khắc im lặng, biết cùng cười và cùng khóc với những người chưa đón nhận nhau nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhau. Điều này giúp chúng ta rất nhiều trong việc hiểu được ý nghĩa của truyền thông là nhìn nhận và tạo nên sự gần gũi. Khi chúng ta thu hẹp những khoảng cách bằng cách đến gần nhau hơn và đón nhận nhau, chúng ta sẽ trải nghiệm được lòng biết ơn và niềm vui mừng. Lời chào của Đức Maria và sự cựa quậy của hài nhi trong lòng Mẹ là sự chúc lành cho bà Êlisabét; tiếp theo là bài ca Magnificat tuyệt đẹp được Đức Mẹ cất lên để chúc tụng kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa đối với Mẹ và dân của Người. Lời “xin vâng” được thốt lên với niềm tin có thể giúp chúng ta bước ra khỏi bản thân mình và ra khỏi chỗ của mình nơi trần gian. “Thăm viếng” là mở toang những cánh cửa, không khép kín trong thế giới nhỏ bé của chúng ta, nhưng bước ra ngoài đến với mọi người. Cũng thế, gia đình trở nên sống động khi tỏa lan ra bên ngoài bản thân mình, những gia đình thực hiện điều đó chính là đang truyền đi sứ điệp sự sống và hiệp thông, mang lại sự nâng đỡ và hy vọng đến với những gia đình mong manh, và nhờ đó xây dựng chính bản thân Hội Thánh, gia đình của mọi gia đình.
Hơn bất cứ nơi nào khác, gia đình là nơi hằng ngày chúng ta trải nghiệm những giới hạn của chính mình và của những người khácnhững vấn đề lớn nhỏ trong việc chung sống an bình với những người khácKhông có gia đình nào là hoàn hảoChúng ta không nên sợ những bất toàn, yếu đuối hay cả những xung khắcnhưng hãy học cách đối phó với những điều ấy một cách xây dựngVì thế gia đình –nơi chúng ta vẫn yêu thương nhau dù có những giới hạn  tội lỗi trở thành một trường học của sự tha thứChính tha thứ  một tiến trình truyền thôngKhi tâm tình hối lỗi được bày tỏ  chấp nhận, việc truyền thông đã bị cắt đứt lại có thể được khôi phục  nối lạiNếu một đứa trẻ đã học được nơi gia đình cách lắng nghe người khác, phát biểu cách tôn trọng và bày tỏ quan điểm của mình mà không phủ nhận người khác, đứa trẻ đó sẽ trở thành người xây dựng đối thoại và hòa giải trong xã hội.
Khi nói đến những thách đố của truyền thôngcác gia đình có con cái bị khuyết tật có nhiều điều để dạy chúng ta. Một nănglực khiếm khuyết, dù là thể lý hay tâm trí, có thể là lý do khiến người ta sống khép kín, nhưng  cũng có thể nhờ tình yêu củacha mẹcủa anh chị em và bạn hữu–trở thành sự khích lệ mở rachia sẻ  sẵn sàng truyền thông với mọi người. cũng có thể giúp cho các trường học, các giáo xứ và các hội đoàn trở nên niềm nở hơn  đón nhận mọi người.
Trong một thế giới mà người ta thường thoá mạsử dụng ngôn ngữ tục tằn, nói xấu người khácgieo mối bất hoà và đầu độcmôi trường của con người bằng thói buôn chuyệncác gia đình có thể dạy cho chúng ta hiểu rằng truyền thông là một phúc lành... Trong những hoàn cảnh dường như bị chi phối bởi hận thù và bạo lựckhi mà các gia đình bị phân rẽ bởi những bức tường bằng đá hay những bức tường của định kiến và giận dữ - cũng khó vượt qua không kém, khi  hình như có lý do chính đáng để nói rằng thôi, đủ rồithì việc chúc phúc chứ không phải thoá mạthăm viếng chứ không phải từ khước và đón nhận chứ không phải đấu tranhmới là phương thế duy nhất để phá vỡ vòng xoáy của sự ác, để cho thấy rằng sự thiện luôn là điều khả thi,  đ giáo dục con cái chúng ta sống tình bằng hữu.
Ngày nay các phương tiện truyền thông hiện đạivốn  một phần thiết yếu của cuộc sống, cách riêng đối với những ngườitrẻ, có thể vừa là sự trợ giúp vừa là một trở ngại cho việc truyền thông trong gia đình  giữa các gia đìnhPhương tiện truyền thông có thể là một trở ngại nếu chúng trở thành một phương cách để tránh né việc lắng nghe người kháctránh việc giao tiếp cụ thểđể lấp đầy những khoảnh khắc thinh lặng và nghỉ ngơi, đến độ chúng ta quên rằng “thinh lặng là thành phần của truyền thông mà nếu không có thì không thể có được những lời mang đậm ý nghĩa (ĐGH Bênêđictô XVISứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội 2012). Các phương tiện truyền thông có thể giúp cho việc truyền thông được dễ dàng khi chúng làm cho mọi người biết chia sẻ câu chuyện đời mìnhgiữ liên lạc với bạn hữu ở xa, cảm ơn hoặc xin lỗi người khác mở ra nhữngcuộc gặp gỡ mớiKhi mỗi ngày mỗi khám phá tầm quan trọng cốt yếu của việc gặp gỡ người kháclà những khả năng mới,chúng ta sẽ sử dụng công nghệ một cách khôn ngoanchứ không để cho nó thống trịỞ đây cũng vậycha mẹ là những nhà giáo dục đầu tiên, nhưng không được để mặc họ với các thiết bị truyền thôngCộng đồng Kitô hữu được kêu gọi giúp đỡ họtrong việc giáo dục con cái làm thế nào để sống trong một môi trường truyền thông một cách phù hợp với phẩm giá con người và phục vụ công ích.
Thách đố lớn đối với chúng ta ngày nay là học lại lần nữa cách nói chuyện với nhaukhông đơn giản chỉ là cách tạo ra và tiêu thụ thông tinĐây là khuynh hướng  các phương tiện truyền thông hiện đại có thể cổ võThông tin là quan trọngnhưngkhông đủ, vì rất nhiều khi nó giản lượcđặt các lập trường và quan điểm khác biệt đối lập nhauvà bắt chúng ta chọn đứng về bên nào, chứ không phải có cái nhìn tổng thể.
Để kết luận, gia đình không phải là một đề tài tranh luận hay một nơi đụng độ về ý thức hệNhưng đúng hơn  một môi trường trong đó chúng ta học truyền thông bằng kinh nghiệm gần gũilà một khung cảnh diễn ra truyền thônglà một cộng đồngtruyền thôngGia đình là một cộng đồng để trợ giúptôn vinh sự sống  sinh hoa kết quả. Một khi nhận ra điều nàychúng tasẽ thêm một lần nữa có thể thấy rằng gia đình vẫn là một nguồn nhân lực phong phú như thế nàochứ không phải là một vấn đề hay một cơ chế đang gặp khủng hoảngĐôi khi các phương tiện truyền thông có xu hướng trình bày gia đình như một thứ mô hình trừu tượng mà người ta  thể chấp nhận hay từ khước, bảo vệ hay tấn côngchứ không phải là một thực tại sống động.Hoặc như một khu vực xung đột ý thức hệ chứ không phải là một môi trường nơi mà mọi người chúng ta có thể học biết truyền thông có ý nghĩa gì trong một tình yêu trao ban và đón nhận. Như thế có nghĩa là nhìn nhận rằng đời sống của chúng ta ràng buộc với nhau như một thực tại duy nhấtrằng chúng ta có nhiều quan điểm, nhưng mỗi người là độc đáo.
Gia đình cần được xem như là một nguồn lực chứ không phải là một vấn đề đối với xã hộiGia đình sẽ trở nên đẹp nhất khi biếtdùng chứng  để tích cực truyền thông vẻ đẹp và sự phong phú của mối tương quan giữa người nam  người nữ, giữa cha mẹ và con cáiChúng ta không đấu tranh để bảo vệ quá khứ. Nhưng chúng ta kiên trì  tin tưởng khi nỗ lực xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho thế giới chúng ta đang sống.
Vaticanngày 23 tháng Giêng 2015
Ngày áp lễ Thánh Phanxicô Salêsiô
PHANXICÔ
(Đức Thành chuyển dịch
từ bản Anh ngữ và Pháp ngữ của vatican.va)

ĐGH Phanxicô